Giống như Near, các Blockchain Layer 1 ngày nay đang càng trở nên đông đúc và cạnh tranh với nhau. Khi Bitcoin được giới thiệu lần đầu tiên vào năm 2008, nó đã có chỗ đứng riêng trong nhiều năm trước khi có bất kỳ kẻ thách thức nào xuất hiện. Cho đến thời điểm này, đã có hơn 100 Blockchain Layer 1 khác nhau cạnh tranh để giành giật gần 2 nghìn tỷ USD được phân bổ trong các hệ sinh thái Crypto.
Bất chấp quy mô khổng lồ của thị trường, chỉ có 2 người chơi là Bitcoin và Ethereum kiểm soát hơn 50% tổng vốn hoá thị trường. Hầu hết những nền tảng mới tập trung phát triển vào không gian hợp đồng thông minh mà Ethereum đã thống trị trước đó.
Trong 18 tháng qua, hàng hoạt các dự án mới đã thành công trong việc lôi kéo dòng tiền. Nhìn vào giá trị TVL, một thước đo tài sản được gửi vào trong một giao thức, Ethereum nắm giữ 97% tổng thị trường hợp đồng thông minh vào đầu năm 2021. Tính đến tháng 3 năm 2022, con số này đã giảm xuống dưới 60%.
Những dự án mới tham gia thị trường đã cố gắng cải thiện những thứ là Ethereum hiện tại đang thiếu, như việc chúng nhanh hơn, rẻ hơn hoặc cung cấp cơ cấu phần thưởng hấp dẫn với người dùng hơn. Vì không gian hợp đồng thông minh đã trở nên quá lớn và tiếp tục phát triển nhanh chóng, không ngạc nhiên khi mà sự cạnh tranh sẽ ngày càng gia tăng. Nhưng liệu sẽ có bao nhiêu người thắng cuộc?
Thông thường, các nền tảng công nghệ có xu hướng về một thị trường nhị quyền bán (chỉ có hai người chơi làm chủ phần lớn thị trường, ví dụ như Android – iOS trong lĩnh vực hệ điều hành điện thoại, Intel – AMD trong lĩnh vực phát triển chip máy tính…) Ethereum và Máy ảo Ethereum (EVM) đã có một khởi đầu thuận lợi đến mức khó có thể vượt qua hoàn toàn. Hơn nữa, hiện đã có một quân đoàn các nhà phát triển đang xây dựng trên EVM. Lợi thế của EVM lớn đến mức các đối thủ cạnh tranh lớn phải sử dụng hoặc xây dựng cầu nối tới EVM thay vì cố gắng cạnh tranh trực tiếp mà không có khả năng này. Ngay cả những cái tên cạnh tranh nổi tiếng như Solana và Cardano gần đây cũng đã và đang bổ sung khả năng tương thích với EVM (Terra là một ngoại lệ). EVM đã tự củng cố vị thế thông qua hiệu ứng mạng lưới của chính nó.
Vậy đâu sẽ là nền tảng tiếp theo nếu như chúng ta dự đoán rằng không gian hợp đồng thông minh sẽ được thống trị bởi hai người chơi? Solana, Avalanche và Terra đã tạo nên những dấu ấn mạnh mẽ vào năm 2021, mỗi dự án đều tăng trưởng thị phần (tính bằng TVL) lần lượt ở mức 4%, 5% và 8%. Cardano đã trở thành nền tảng hợp đồng thông minh thứ 2 theo tổng giá trị thị trường, trước khi bị Terra và BNB vượt mặt. Sau nhiều năm trì hoãn, cuối cùng khả năng sử dụng hợp đồng thông minh của Cardano đã được ra mắt vào tháng 9 năm 2021. Từ đó cho đến nay, Cardano chỉ giành thêm được 0.05% thị phần.
Một giao thức mới đã bắt đầu nổi vào giữa năm 2020 và tham gia vào cuộc cạnh tranh này. Sở hữu đội ngũ ấn tượng, nguồn tài trợ mạnh mẽ và công nghệ nền tảng mới mẻ, NEAR Protocol đã nhanh chóng tăng trưởng lên mức vốn hoá 10 tỷ USD trong vòng hơn 1 năm kể từ khi ra mắt. Trong series này, Allinstation sẽ giới thiệu đến anh em cũng như đi sâu vào phân tích các khía cạnh của dự án NEAR Protocol, để xem liệu NEAR có tiềm năng đạt được vị thế mà mọi người mong đợi hay không nhé!
Tổng quan về giao thức và đội ngũ dự án
Near được thành lập vào năm 2018 bởi Illia Polosukhin và Alexander Skidanov. Họ đều là những sinh viên giỏi trên trường, Illia là kỹ sư ở Google và Alex là kỹ sư phần mềm tại Microsoft. 2 người gặp nhau tại sự kiện Y-Combinator và đã hợp tác cùng các nhà phát triển trên khắp thế giới để giải quyết một vấn đề về tổng hợp chương trình (chén thánh của các vấn đề trong khoa học máy tính). Khi gửi các khoản thanh toán cho những cá nhân này, nhóm đã thử sử dụng các mạng tài chính truyền thống nhưng lại quá chậm hoặc tốn kém. Khi họ thử sử dụng nền tảng Crypto, họ cũng gặp phải vấn đề là các Blockchain hiện tại quá chậm, quá đắt hoặc không thể xử lý đủ các giao dịch. Để xây dựng một Blockchain tốt hơn, họ đã bắt đầu dự án NEAR Protocol.
Khi họ nghiên cứu sâu hơn về công nghệ của nền tảng hợp đồng thông minh lớn nhất lúc bấy giờ là Ethereum, đội ngũ NEAR nhận thấy rằng các công cụ cũng như tư duy viết code trên này rất khó hiểu đối với hầu hết các nhà phát triển truyền thống. Họ đã xây dựng các thành phần của NEAR ngay từ đầu bằng các công cụ tiêu chuẩn ngành được sử dụng tại Google, Microsoft và các công ty công nghệ truyền thống hàng đầu khác. Điều này làm nổi bật một đặc tính chính của đội ngũ NEAR: tư duy ưu tiên nhà phát triển trong mọi việc họ làm. NEAR có thể hỗ trợ bất kỳ ngôn ngữ nào biên dịch thành WebAssembly, bao gồm Java, Go, Rust và các ngôn ngữ khác. Điều này sẽ giúp các nhà phát triển Web2 tạo ứng dụng dễ dàng hơn thay vì phải học một ngôn ngữ mới cụ thể như Solidity, ngôn ngữ ưa thích của Ethereum, để bắt đầu viết code. WebAssembly cũng cho phép các nhà phát triển chuyển các ứng dụng cũ của họ sang Web3 dễ dàng hơn. Rust là ngôn ngữ ưa thích cho các lập trình viên NEAR viết mã nếu họ muốn xây dựng các ứng dụng của mình một cách linh hoạt hơn.
Với đặc tính linh hoạt được bổ sung vào công nghệ Blockchain, tầm nhìn của NEAR là có thể trở thành một nền tảng cơ bản để xây dựng một “web mở” phi tập trung. Tầm nhìn này mở rộng khái niệm về việc chuyển giao giá trị có thể chuyển đổi, không cần sự cho phép đối với các tài sản tài chính mà chúng ta thấy trong DeFi, đến việc mã hóa mọi thứ có thể và sẽ có giá trị, có thể là một tác phẩm nghệ thuật kỹ thuật số hoặc là một bài đăng trên mạng xã hội. Để đạt được mức quy mô này, Blockchain cơ bản hiện tại sẽ phải có khả năng xử lý khối lượng giao dịch khổng lồ, nhanh chóng và với chi phí thấp: đều là những thứ mà NEAR đang cố gắng để đạt được.
Công nghệ
Cơ bản về Blockchain
NEAR sử dụng một loại thuật toán đồng thuận PoS được gọi là Thresholded Proof-of-Stake (Bằng chứng cổ phần theo ngưỡng). Phương pháp này phân bổ phần thưởng staking cho các validator và những người stake dựa trên tỷ lệ NEAR được stake với một phân mảnh (shard) cụ thể, lên đến một mức tối đa nhất định. Điều này cho phép việc tham gia mạng lưới được mở rộng hơn bằng cách tăng số lượng validator. Các giải pháp của bên thứ ba, chẳng hạn như Metapool, cũng đã được xây dựng để đẩy mạnh tính phi tập trung hơn nữa.
Kỹ thuật tạo ra khối của NEAR được gọi là “DoomSlug”. DoomSlug cho phép NEAR đạt được “tính cuối cùng” (Finality) cho các giao dịch chỉ sau một vòng giao tiếp giữa các validator thay vì phải đợi nhiều khối như Ethereum. Finality là một thuật ngữ chỉ thời điểm mà một giao dịch Blockchain không thể thay đổi bởi mạng lưới. NEAR có thể tiếp tục tạo ra và hoàn thiện các khối nếu một nửa số người tham gia đang trực tuyến và không chứng thực các khối không hợp lệ hoặc không chính xác. Phần 50% này khác với tỷ lệ 66% được yêu cầu bởi các thuật toán đồng thuận Byzantine Fault Tolerance (BFT) làm nền tảng cho Ethereum và các mạng khác. Sự đồng thuận 50% này được gọi là “Doomslug Finality”. Để phân tích sâu hơn thì sẽ quá thiên về kỹ thuật nhưng để tóm gọn thì những cải tiến chính từ các thuật toán BFT phổ biến (chẳng hạn như PBFT, Tendermint hoặc Hotstuff) là rút ngắn thời gian giao tiếp giữa những người tham gia và giả định ngầm về tính trung thực của các nhà sản xuất khối. Chuỗi chỉ có thể được đảo ngược nếu một người tạo ra khối bị phạt vì đề xuất khối không chính xác. Nếu người tham gia muốn xem toàn bộ kết quả cuối cùng của BFT, họ chỉ cần đợi thêm một khối nữa cho xác nhận đó. Những điều chỉnh này cho phép hoàn tất trong 1–2 giây so với hơn 1 phút hoặc hơn đối với Ethereum.
Khả năng tương thích
Blockchain của NEAR có thể được sử dụng để chạy các hợp đồng thông minh, nhưng nó cũng có khả năng tương thích với EVM để cho phép các nhà phát triển Ethereum có thể dễ dàng chuyển các ứng dụng sang Blockchain này. NEAR đạt được khả năng tương thích với EVM theo một cách độc đáo: NEAR đã triển khai một hợp đồng thông minh trên mạng NEAR chính, được gọi là Aurora. Aurora về cơ bản hoạt động như một mạng độc lập của riêng nó, nhưng là một hợp đồng thông minh chứ không phải là một chuỗi khối hoàn toàn mới. Thiết kế này cho phép việc nâng cấp trở nên linh hoạt hơn đồng thời thể hiện sức mạnh của công nghệ cốt lõi của NEAR vì các Blockchain khác không có khả năng chạy EVM theo cách này.
Aurora hoạt động như một Sidechain và không xác thực các khối ngoài chuỗi giống như các giải pháp loại Lớp 2 tương tự trên Ethereum. Tất cả quá trình xác thực xảy ra trên chuỗi NEAR và Ethereum. Bởi vì Aurora không phải là Blockchain của riêng nó, Aurora kế thừa thời gian khối và cơ chế đồng thuận từ mạng lưới NEAR. Để thanh toán cho các giao dịch, người dùng phải trả phí cho mạng lưới NEAR bằng ETH thay vì một số token gốc khi sử dụng Aurora hoặc các ứng dụng của nó. Cách làm này làm tăng tính đơn giản cho người dùng.
Tính bảo mật và khả năng mở rộng
Các node trên Blockchain có các chức năng cơ bản là xử lý giao dịch, giao tiếp với các node khác và lưu trữ lịch sử dữ liệu của blockchain. Công nghệ Blockchain hiện tại yêu cầu tất cả các node đầy đủ trong một mạng lưới phải xử lý mọi giao dịch và lưu trữ toàn bộ lịch sử của chuỗi. Điều này giữ cho mạng lưới được an toàn, nhưng nó làm cho mạng lưới chậm đi vì phải đợi mọi node cập nhật. Ví dụ, Ethereum có hơn 10,000 node phải đồng bộ hóa để mạng lưới có thể hoạt động liên tục. Cách tiếp cận của NEAR tương đồng với khả năng mở rộng tương tự như Ethereum 2.0 ở chỗ là sử dụng công nghệ Sharding. Sharding sẽ chia lịch sử dữ liệu Blockchain thành các phần nhỏ hơn, cho phép chúng được lưu trữ giữa các bên khác nhau. Bằng cách này mà mạng lưới có thể phân phối lưu trữ tải, xử lý và tính toán trên nhiều node để tăng tốc độ mạng và khả năng mở rộng. Mỗi node có thể xử lý và giữ một phần của trạng thái tổng thể hơn là mọi giao dịch.
Mặc dù Sharding đi kèm với những lợi ích nói trên, nhưng nó cũng đặt ra những rủi ro về bảo mật và thách thức về giao tiếp giữa các mảnh và tính bảo mật của từng mảnh riêng lẻ. Mỗi mảnh hoạt động trong một phần nào đó của một silo vì các validator chỉ nhìn thấy trạng thái đầy đủ của phân đoạn riêng lẻ của họ. Bởi vì mỗi mảnh tự nhiên sẽ có ít validator hơn so với chuỗi chính, chúng dễ bị tác động xấu hơn; thiết lập này làm cho mỗi mảnh kém an toàn hơn so với toàn bộ chuỗi. Các mạng lưới phân mảnh truyền thống thường chỉ định ngẫu nhiên validator cho các mảnh để giải quyết vấn đề này. Tuy nhiên tính ngẫu nhiên trên Blockchain là một vấn đề phức tạp và thực hiện nó trong Sharding đều đi kèm với sự đánh đổi nhất định. NEAR có một cách tiếp cận mới đối với tính ngẫu nhiên bằng cách “khoan dung” tới 2/3 các tác nhân xấu trước khi giao thức bị xâm phạm.
NEAR đã giới thiệu một công nghệ sharding có tên là NightShade để cải thiện các vấn đề của phương pháp tiếp cận truyền thống. Mỗi mảnh tạo ra một lô dữ liệu của riêng nó, được gọi là “chunk”, sau đó chúng được sắp xếp thành một khối bởi validator chính. Mỗi khối chứa tất cả các tiêu đề của các mảnh, là siêu dữ liệu bao gồm thông tin về nội dung của mảnh: danh sách đầy đủ các giao dịch của mảnh đó. Cách tiếp cận này làm giảm không gian mà các mảnh chiếm trong mỗi khối và thông tin liên lạc về các giao dịch của mảnh riêng lẻ cũng được truyền tải trong toàn bộ chuỗi khối. Điều này cho phép chuỗi song song xử lý, lưu trữ và lan truyền mạng. Từ quan điểm của người dùng và nhà phát triển, NEAR trông giống như một chuỗi để xử lý, thay vì nhiều chuỗi độc lập như Cosmos hoặc Polkadot. NEAR vừa mới mở rộng từ một lên bốn mảnh vào tháng 12 vừa qua. Việc nâng cấp hệ thống này không yêu cầu thời gian chết của mạng lưới và không cần thay đổi nào từ các nhà phát triển hoặc người dùng của nó.
Hiện tại đang có 100 validator đang nắm giữ nhiệm vụ bảo mật mạng. Những validator này chịu trách nhiệm sản xuất và xác nhận các “chunk” được đề cập ở trên. Bởi vì số lượng vị trí validator ít nên giá để trở thành một validator trong mạng lưới là khá cao.Vào tháng 12 năm 2021, số tiền bỏ ra để trở thành 1 validator là 3,6 triệu NEAR, tuy nhiên con số này đã giảm xuống còn ~ 50.000 NEAR vào ngày hôm nay và có khả năng sẽ tiếp tục giảm khi số lượng validator được thêm vào trong bản cập nhật sắp tới dự kiến ra mắt vào giữa 2022. Số lượng NEAR cần stake để trở thành validator sẽ phụ thuộc vào số người đang stake trên mỗi mảnh. Càng ít người stake vào một mảnh, thì yêu cầu đối với những người stake mới càng thấp. Điều này khuyến khích các cá nhân hướng tới các mảnh ít phổ biến hơn.
Giai đoạn cuối cùng của NightShade sẽ giới thiệu tính năng tái phân mảnh linh hoạt (dynamic re-sharding), cho phép mạng lưới và số lượng phân mảnh có thể mở rộng khi nhu cầu của người dùng tăng lên. Điều này cho phép thông lượng cao trong khi vẫn quản lý được chi phí và dự kiến được thực hiện vào cuối 2022. Đến lúc đó, sẽ có tổng cộng tám phân mảnh với một phân mảnh dành riêng cho việc chạy Aurora. Tính linh hoạt của cấu trúc của NEAR cho phép các ứng dụng được chuyển sang phân mảnh của riêng chúng nếu chúng trở nên rất phổ biến, đây là một quá trình thách thức hơn nhiều khi thực hiện trên các Blockchain khác.
Để đẩy mạnh hơn nữa việc mở rộng quy mô, NEAR đã hợp tác với Octopus Network để cho phép các nhà phát triển xây dựng và khởi chạy “chuỗi ứng dụng” của riêng họ, được thiết kế cho các trường hợp sử dụng cụ thể và hoạt động song song với chuỗi chính. Octopus cung cấp các chuỗi ứng dụng dựng sẵn với chức năng cho các nhà phát triển, vì vậy tất cả những gì họ phải lo lắng là giao diện người dùng của ứng dụng của họ. Tất cả các chuỗi ứng dụng trên Octopus tương thích chéo với các Blockchain khác. Mạng được khởi chạy như một hợp đồng thông minh trên NEAR. Polkadot có các chuỗi chuyên dụng tương tự cho các ứng dụng nhưng chúng phần lớn tốn kém để khởi chạy và duy trì. Ví dụ, để khởi chạy một chuỗi trên Octopus thì chưa đến 100.000 đô la trong khi trên Polkadot, cho đến nay, con số này đã cao hơn 40 lần.
Tính khả dụng
Cuối cùng, một khía cạnh có vẻ nhỏ nhưng lại rất quan trọng đối với người dùng đó là mô hình tài khoản NEAR. Trong cách Blockchain khác, public key sẽ đóng vai trò là số tài khoản của người dùng, được liên kết với khóa riêng tư của họ để cho phép kiểm soát tài khoản. NEAR đã xây dựng public key dưới dạng các địa chỉ có thể đọc được của con người, tương tự như những gì ENS đã xây dựng cho Ethereum, nhưng miễn phí.
Hơn nữa, public key này không nhất thiết phải được liên kết với một private key chính, nó có thể được liên kết với nhiều private key có các cấp độ quyền khác nhau. Mỗi private key có thể được phép chỉ tương tác với một số hợp đồng nhất định, chỉ chi tiêu một số tiền nhất định, chỉ được sử dụng trong một khoảng thời gian nhất định, v.v.
Kết hợp tất cả lại với nhau, NEAR đã xây dựng công nghệ cho phép thực hiện các giao dịch nhanh chóng (~ 1 giây), hoàn tất nhanh (~ 1-2 giây), rẻ (chưa đến một xu) và an toàn.
Về các nhà đầu tư (còn tiếp)
…
Xem tiếp phần 2: Phân tích NEAR – Tương lai của Blockchain Layer 1 (Part 2)
Tạm kết
Sau bài viết này, anh em đã phần nào nắm được một số thông tin cơ bản về NEAR và công nghệ của NEAR, những nét đặc biệt khiến cho Blockchain này trở nên nổi bật như vậy. Hy vọng anh em cảm thấy hữu ích và chờ đón những bài viết kế tiếp trong series này nhé.